Khu trú ẩn bí mật cảm hứng từ văn chương đầu tiên tại Việt Nam
“Khu trú ẩn bí mật cảm hứng từ văn chương đầu tiên tại Việt Nam, kiến trúc thuận thiên, chăm sóc sức khoẻ toàn diện tại núi lớn Pù Luông.”
Đẹp như mơ, lãng mạn như thơ, nép mình giữa rừng nhiệt đới Pù Luông, cánh đồng lúa bậc thang, những dòng suối mát lành và không xa là sông Mã huyền thoại, Secret Hideaways Pù Luông (www.secret-hideaways.com), chốn riêng an nhiên này được thổi hồn từ những điều kỳ diệu của thiên nhiên, văn hoá, di sản, lịch sử và con người vùng cao Tây Bắc.
Di sản bao gồm di sản văn hoá và di sản thiên nhiên. Theo định nghĩa của Tổ chức Bảo tồn Di sản Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ, “Du lịch di sản văn hóa là du lịch để trải nghiệm địa điểm, hiện vật, các hoạt động thể hiện chân thực những câu chuyện và con người xưa và nay, nó bao gồm văn hóa, lịch sử và tài nguyên thiên nhiên”. Du lịch văn chương là một phần nhánh nhỏ của du lịch di sản giầu tài nguyên của Việt Nam.
Lấy cảm hứng từ bài thơ “Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng nổi bật thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, tô điểm hình ảnh người lính Hà Nội hào hoa và lãng mạn, họ đã tham gia những đoàn quân bí mật bảo vệ biên giới phía Tây nhưng vẫn “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Trên đường hành quân trên những con đường mòn bí mật hay ngược dòng sông Mã để tới Mộc Châu, “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”, tiến tới chiến dịch Điện Biên Phủ sau này bắt gặp những ngôi nhà sàn “Nhà ai Pha Luông mưa khơi xa”.
Từ vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc và hình ảnh đẹp bi hùng của người lính trong thơ Tây Tiến, cũng từ những trải nghiệm cá nhân và sự yêu mến vùng đất, con người, di sản thiên nhiên, văn hoá, ẩm thực địa phương, ông Phạm Hà, chuyên gia ý tưởng, nhà sáng lập thương hiệu, đã lên ý tưởng cho khu nghỉ núi cao cấp, chân thực và độc đáo kết nối quá khứ và hiện tại mang đến một trải nghiệm để nhớ cho lữ khách đường xa. Đây là khu lưu trú cảm hứng từ văn chương đầu tiên tại Việt Nam.
Mỗi một căn phòng trong tổng số 35 căn phòng lưu trú, cảm hứng từ nhà sàn bản địa, độc đáo cũng như nhà sàn người Thái, bungalow hay nhà tròn rondavel độc đáo kiểu du mục nhà binh, trên nhà sàn bằng gỗ, lợp cọ, với 1 phòng ngủ tiện nghi đều được thiết kế thuận nhiên wellness (buid well, experience well: air, water, light, comfort, nourrishment, fitness, mind)
(Xây dựng nguyên thuỷ, trải nghiệm nguyên sơ: không khí, nước, ánh sáng, tiện nghi, thực dưỡng, vận động và thư thái tâm trí. Chúng tôi thiết kế thuận theo tự thiên và hoà quyện vào thiên nhiên, bản làng, núi rừng Pù Luông cho phép du khách tận hưởng nét tinh tuý kiến trúc địa phương, hoà mình vào khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, thanh bình nhất Việt Nam, khu nghỉ đề cao sự yên tĩnh, riêng tư tối đa, thoải mái cá nhân và trải nghiệm thửa theo yêu cầu.
Tất cả các phòng đều có phòng tắm riêng trong nhà, ban công riêng và phòng ngủ rộng rãi 35m2, ngắm nhìn thiên nhiên chuyển động từng giờ ngoài ô cửa và căn phòng mang đến khung cảnh hoàn hảo cho bữa tối thân mật dưới ánh nến hay ánh trăng sao trong sự yên tĩnh tuyệt đối.
Khám phá những khu rừng cây cổ thụ, những thung lũng, suối lớn, dòng sông, cánh đồng lúa bậc thang, chợ phiên vùng cao, núi đồi hùng vĩ và những ngôi nhà sàn truyền thống nguyên thuỷ cùng với concierge hướng dẫn viên riêng như một phần của hành trình sức khoẻ thể chất và tinh thần nơi Núi Lớn Phà Luông hay Bù Luông theo tiếng Thái.
Khu nghỉ được thiết kế thuận thiên, xây dựng nguyên thuỷ theo kỹ thuật làm nhà truyền thống của người Thái, chúng tôi giữ trạng thái nguyên trạng khi thiết kế, giữ từng cái cây, hồ ao, sông suối, hợp phong thuỷ, nắng gió, độ ẩm, mây trời, không khí trong lành và những cơn gió nhẹ, du khách đón được ánh nắng ban mai, hay tia nắng cuối ngày và một tâm hồn thanh thản lắng đọng với sự tĩnh lặng đầy chiêm nghiệm ở nơi hoang sơ trong vùng đất, nước, trời mây, sông suối róc rách ngày đêm giữa rừng nguyên sinh trong đại ngàn Tây Bắc để du khách chạm vào hoang sơ.
Ẩm thực địa phương được chúng tôi nâng tầm ẩm thực cao cấp, ăn không chỉ là thực đơn mà là trải nghiệm ẩm thực, món ăn địa phương với câu chuyện thú vị và không gian và trải nghiệm đáng nhớ. Với ý tưởng boutique chúng tôi rất chú trọng đồ ăn thức uống theo phong cách và trào lưu Locavore (đến vùng nào thưởng thức ẩm thực địa phương vùng đó). Tất cả các trải nghiệm du lịch và hoạt động tại điểm đến đều có thể thửa theo yêu cầu.
Mang vẻ mơ màng hướng ra cảnh đồng lúa ruộng bậc thang và ngọn núi lớn Pù Luông, Secret Hideaways chốn riêng bí mật mang phong cách boutique chỉ với 35 phòng này sở hữu kiến trúc nhà sàn Thái truyền thống và nhà tròn vị lai và bungalow đầu tiên tại Pù Luông đầy vẻ mới lạ. Một trải nghiệm dưới mái hiên nhà, bên bờ ruộng lúa cùng tận hưởng triết lý XANH lối sống, MẠNH thể chất, LÀNH tâm hồn đầy cuốn hút nhưng không kém phần thơ mộng. Chúng chú tâm thiết kế trải nghiệm du lịch chậm, sống chậm của du khách, chúng tôi mong muốn làm cho mỗi khoảnh khắc trở nên quan trọng và đáng nhớ.
Bài Thơ Tây Tiến
TÌM HIỂU
BÀI THƠ TÂY TIẾN
CỦA QUANG DŨNG
Tây Tiến là một trong những thi phẩm xuất sắc để lại trong thời kỳ đầu của kháng chiến chống Pháp.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ông không những chỉ là nhà thơ mà còn là họa sỹ, nhà sáng tác âm nhạc, có lẽ vì vậy trong thơ Quang Dũng vừa có chất nhạc lại vừa có chất họa. Hồn thơ Quang Dũng thì phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và vô cùng hào hoa đặc biệt khi ông viết về mảnh đất xứ Đoài, Sông Đáy và viết về những người đồng đội đồng chí của mình.
Bài thơ Tây Tiến có hoàn cảnh sáng tác khá đặc biệt, đó là bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Quang Dũng chuyển công tác rời đơn vị Tây Tiến, khi đó nỗi nhớ về đồng đội và chiến trường xưa ùa về, khiến cảm xúc dâng trào giúp Quang Dũng sáng tác ra tuyệt bút.
Trong bài thơ này chúng ta vừa thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc lại vừa hiểu rõ vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Bài thơ Tây Tiến lúc đầu được lấy tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng tác giả thấy để như thế rất lộ nên cuối cùng chỉ để hai chữ “Tây Tiến” nghe vừa giản dị mà lại thân thương.
Vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
- Tây Bắc là nỗi nhớ chơi vơi
Là một người lính lãng mạn và hào hoa, ra đi theo tiếng goi của Tổ quốc, gắn bó sâu đậm với mảnh đất Tây bắc, với các đồng chí đồng đội nơi đây và vì vậy khi nhớ lại Tây bắc, nhớ lại chiến trường xưa thì tất cả kỷ niệm đều ùa về với nhà thơ. Chúng ta thấy nỗi nhớ tràn ngập từ đầu bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ xa xôi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Điệp từ “nhớ” “nhớ” rồi hai tiếng gọi Tây Tiến ơi vang lên thân thuộc và tha thiết. Việc sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nhân hóa, đặc biệt hình ảnh dòng sông Mã hiện lên ngay từ đầu bài thơ. Đây không còn là dòng sông đơn thuần của thiên nhiên nữa, nó giờ đây là dòng sông của cảm xúc của tâm trạng, khơi nguồn cảm hứng, tâm trạng của thi sĩ. Chúng ta biết sông Mã là con sông chảy dọc mảnh đất Tây Bắc, chính vì vậy mà người lính Tây Tiến cứ hành quân dọc theo mảnh đất này, nên con sông Mã trở thành người bạn đồng hành của người lính để họ giãi bày tâm sự.
Đối với nhà thơ Quang Dũng thì nó lại càng có ý nghĩa hơn. Hình ảnh con sông Mã xuất hiện xuyên suốt từ đầu đến cuối bài thơ. Từ hình ảnh con sông Mã lại xuất hiện biết bao địa danh mới vừa lạ mà lại vừa quen khiến cho mảnh đất Tây Bắc hiện lên thật thân thương. Vì vậy Tây Bắc không phải chỉ là mảnh đất mà nó còn là mảnh đời, mảnh tình, mảnh hồn của người lính. Và nỗi nhớ ở đây không phải là nỗi nhớ bình thường, nó là nỗi nhớ chơi vơi, không hình dạng, là nỗi nhớ bồng bềnh lan tỏa, mênh mang giữa hai bờ hư thực, giữa quá khứ và hiện tại.
- Tây Bắc với vẻ đẹp dữ dội và hoang vu
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhịp thơ 4/3, 4/3 khiến chúng ta có cảm giác như câu thơ bị bẻ đôi, dập gập lại khiến chúng ta có cảm giác như trước mắt mình là bức phù điêu chạm nổi về núi rừng Tây Bắc. Tây Bắc cứ hiện lên trùng trùng điệp điệp, núi cao đèo sâu. Và rồi để hỗ trợ cho nhịp thơ như vậy, tác giả sử dụng rất nhiều thanh trắc: “khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút..” và sử dụng từ mang số từ như “ngàn thước”, hoặc những từ tương phản đối lập về phương hướng như lên, lên rồi xuống.
Cứ thế hình ảnh của Tây Bắc rất dữ dội, hiểm trở hiện lên, đó là những con đường hoang sơ, và Tây Bắc cũng là chốn rừng thiêng nước độc với thác gầm, Mường Hịch cọp trêu người… Khi viết về mảnh đất Tây Bắc hoang sơ, dữ dội như này, Quang Dũng đã vẽ những nét vẽ rất gân guốc, mạnh mẽ đậm chất nhạc, chất họa, ở đây ta không thấy sự sợ hãi của người lính mà ngược lại nó tôn thêm sức mạnh, sự mạnh mẽ của người lính. Tây Tiến vang lên như những bước chân rắn rỏi, mạnh mẽ của người lính Tây Tiến.
- Tây Bắc thơ mộng trữ tình
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ba câu thơ đầu cảnh vật rất dữ dội, hoang sơ nhưng câu thơ cuối toàn thanh bằng tựa như một tiếng reo. Giữa núi rừng hẻo lánh đầy nguy hiểm lại hiện lên hình ảnh ngôi nhà bồng bềnh trong mưa, tạo cảm giác lãng mạn, đem lại hơi ấm của sự sống, nó cho thấy người lính Tây Tiến không hề cô đơn giữa chốn núi rừng. Và hình ảnh ngôi nhà hiện ra một Tây Bắc rất là đầm ấm, trữ tình, thơ mộng.
Câu thơ: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai châu mùa em thơm nếp xôi. Thực ra nếu nhìn vào thanh điệu, một bài thơ giàu chất nhạc như Tây Tiến, chúng ta đương nhiên lúc nào cũng phải quan tâm đến thanh điệu, chính cái thanh điệu “trắc, bằng, bằng, trắc, bằng, bằng, trắc” rất đều cứ bồng bềnh, bồng bềnh giống như sợi khói lan tỏa giữa buổi chiều giữa chốn núi rừng thật lãng mạn, huyền ảo.
Câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” trong đó chữ “mùa em” thực sự là sự sáng tạo mới của Quang Dũng về mặt ngôn ngữ. Bình thường chúng ta hay gắn mùa lúa, mùa vải, mùa quýt mùa nhãn, nhưng ở đây Quang Dũng lại nói là mùa em. Hẳn đây là thủ pháp nhân hóa khiến cho hình ảnh Mai Châu hiện lên thật gần gũi, hình ảnh Mai Châu hiện lên như một cô gái thật tuyệt đẹp, đang ở độ xuân thì, độ son sắc, độ tuổi đẹp nhất của người thiếu nữ, lại được bổ sung thêm chữ thơm lại càng gợi cảm giác gần gũi, trù phú, no ấm
Một Tây Bắc vừa đẹp, rất đỗi hoang vu vắng lặng, dữ dội, lại vừa lãng mạn, trù phú, no ấm và trong cái nhìn mộng mơ trữ tình này hai thủ pháp tương phản, đối lập cho thấy sự xen kẽ giữa chất hiện thực dữ dội với chất lãng mạn, thơ mộng tạo ra bức tranh thực sự rất hài hòa. Đối với người lính Tây Tiến thì Tây Bắc không chỉ là nỗi nhớ chơi vơi, không chỉ là hình ảnh của sự dữ dội, hoang sơ mà Tây Bắc
- Tây Bắc là sự mê say, sâu lắng
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhac về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Đây là hình ảnh một Tây Bắc trong say mê và sâu lắng. Đến với mảnh đất Tây Bắc không chỉ đến với thiên nhiên dữ dội hoang sơ hay trữ tình mà còn đến với những con người Tây Bắc đầy chất thơ, chất nhạc, chất họa. Hình ảnh một đêm liên hoan lửa trại đầy say mê, thắm tình quân dân thể hiện ở không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”. Những cô gái duyên dáng xuất hiện trong từ ngữ “xiêm áo”, “ e ấp” càng làm cho không gian buổi liên hoan thêm lãng mạn, trữ tình. Vì đó tâm hồn những người lính cũng bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khổ thơ tiếp theo chính là hình ảnh buổi chiều sương rất mềm mại, bảng lảng, huyền ảo, hoang dại và thiêng liêng, thể hiện rất rõ qua các từ: “chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”. Con người lao động ở Tây Bắc bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật hết sức duyên dáng, đầy sức sống, lãng mạn: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh trôi dòng nước lũ hoa đong đưa gợi được đúng cái hồn của Tây Bắc vì ở vế đầu “trôi dòng nước lũ’ thể hiện sự dữ dội, hoang sơ, nhưng sang đến vế sau “hoa đong đưa” lại thể hiện cho cái đẹp, sự nhẹ nhàng, tinh tế lãng mạn của thiên nhiên nơi đây.
Có thể nói Tây Bắc trong mê say là mộng mơ, là huyền ảo, mà cũng rất tha thiết và quá đỗi bâng khuâng sẽ gieo vào lòng người lính đâu chỉ là một hồn thơ mà là những ấn tượng không thể phai về mảnh đất có tên gọi Tây Bắc. Nhờ bút pháp lãng mạn của mình, Quang Dũng đã vẽ lên một Tây Bắc vừa dữ dội, hùng vĩ nhưng cũng rất trữ tính, thơ mộng.
Vẻ đẹp của người lính Tây Bắc
Chân dung người lính được miêu tả chân thực qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Chúng ta có thể thấy người lính Tây Tiến sống và chiến đấu trong hoàn cảnh, điều kiện vô cùng khắc nghiệt, gian khổ, chốn rừng thiêng nước độc nên mắc căn bệnh sốt rét rừng nên tóc không thể mọc, da thì xanh xao vàng vọt. Đấy là hiện thực chiến tranh mà người lính Tây Tiến phải gánh chịu, và Quang Dũng đã khắc họa nó một cách chân thực nhất.
Dù chiến tranh có khó khăn gian khổ, khắc nghiệt là thế, nhưng những người lính Tây Tiến, chủ yếu là trí thức tiểu tư sản Hà Thành vẫn cho thấy họ là những người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương. Hình ảnh “dữ oai hùm” không chỉ là vẻ đẹp ở bên ngoài, dữ dội, rắn rỏi, mạnh mẽ mà nó còn là khí chất, lan tỏa ra từ bên trong, khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ, đó chính là sự dũng cảm, mạnh mẽ, kiên cường của người lính Tây Tiến.
Hình ảnh nữa cũng đầy ấn tượng “mắt trừng” là ánh mắt rất dữ dội, và mộng ở đây không phải là mộng mơ mà là mộng diệt thù của những người ra đi đánh giặc. Giữa những câu thơ rất là gân guốc, mạnh mẽ với những nét vẽ khỏe khoắn, lại có câu thơ rất mềm mại “đêm mơ Hà nội dáng kiều thơm”. Hà Nội chính là quê hương, là hình bóng thân thương đối với các chiến sĩ và họ lấy hình bóng người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.
Như vậy những người lính không phải là những người khổng lồ không có trái tim, họ không phải là những cỗ máy chiến tranh tàn khốc, mà họ là những người có trái tim tràn đầy tình yêu thương. Vì yêu quê hương, yêu con người nơi mình sinh ra nên họ mới có lòng căm thù giặc, mới có động lực chiến đấu vượt qua mọi gian khó của chiến tranh.
Vẻ đẹp bi tráng của người lính thể hiện qua sự hy sinh anh dũng của họ. Họ sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”. Người lính Tây Tiến hiện lên trong đau thương, hy sinh và mất mát, họ ra đi rất thanh thản, nhẹ nhàng bi mà không lụy. “Chẳng tiếc” là từ cho thấy cái gì đó rất là ngang tàn, không phải là vì những người lính ấy không yêu quý tuổi xuân của mình mà bởi vì “chẳng tiếc” ở đây là họ đã đặt sinh mệnh tổ quốc lên trên sinh mệnh của mình.
Một hình ảnh khác gợi lên vẻ đẹp hùng tráng của những người lính đó là hình ảnh “áo bào”. Thực ra người lính không có cả manh chiếu cuốn thân, họ cứ thế với tấm áo quân phục mà trở về với đất mẹ. Tuy nhiên bộ quân phục của người lính được mỹ lệ hóa trở thành tấm áo bào như những hình ảnh tráng sĩ xưa. Dòng sông Mã tượng trưng cho đất nước đang nghiêng mình tiễn đưa các anh vào cõi vĩnh hằng. Cái hình ảnh của dòng sông Mã gầm lên trở thành khúc ca đưa tiễn người lính, nâng hình ảnh người lính lên mức sử thi, giúp người lính trở thành hình ảnh bất tử với thời gian.
Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Thơ Quang Dũng không nhiều nhưng có các bài được coi là tuyệt tác trong thi đàn Việt Nam như “Tây tiến”, “Đôi bờ”, “Đôi mắt người Sơn Tây”. Các bài thơ này chiếm được sự mến mộ của rất nhiều người, và được các nhạc sĩ danh tiếng lựa chọn để phổ. Có những câu thơ làm Quang Dũng khốn khổ nhưng cùng với thời gian tuyệt bút Tây Tiến đã khẳng định tài năng một hồn thơ dân tộc lớn lao, vẫn còn sức quyến rũ với người đọc hôm nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn kháng chiến dân tộc chống Pháp.
Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.